29 tháng 08, 2014 17:04 Khung trời hội cũ 2 viết:
Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp
nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp: Để về hỏi lại ni cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời
Hội cũ
Xin xuống dòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Khung trời hội cũ.
Một hội Đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
Mở
lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ
hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao
xuyến, một tuổi vàng long lanh... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện
tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ
không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều "phải
nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện
nói".
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác
thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung
quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi
người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ
nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng giống lối
vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc
hết cả (par manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta
hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi
người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ
như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua
Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: "Trẫm
dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng
(... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".
Ông
vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên
hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm
trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
Vua đã ban cho chan hòa mưa
móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa
vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha
hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong
hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào
long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ
bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?
"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
Áo
nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào
xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?
Tôi
nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông
kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở
về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt,
một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút
vội vã bỗng thấy mình du thủ ? Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ
trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ?
Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới
kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy
sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi
gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
Thi
nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề
rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời
xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể
của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt
muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của
tâm tình sừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết
điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân
chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi
yêu thương ?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.