27 tháng 04, 2013 23:41 Nguyễn Quốc Bảo viết:
Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Yên, người làng Tiên Ðiền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.Ông sinh năm 1765 (niên hiệu Cảnh Hưng) và mất năm 1820 ( Niên hiệu Minh Mệnh).
Ông vẻ người khôi ngô, tuấn tú, rất thông minh, lúc lên 6 tuổi đi học , sách vở chỉ xem qua một lượt là thuộc. Năm 19 tuổi, ông thi hương đậu tam trường; có ra làm quan với nhà Lê. Khi Tây Sơn nổi lên, ông về ở ẩn tại quê nhà. Sau ông bị nhà Nguyễn triệu ra làm quan và cử đi sứ Trung Quốc vào năm 1813; đến năm 1820 ông lại được cử đi sứ lần nữa nhưng chưa kịp đi thì mất.
Tương truyền lúc còn trai trẻ Nguyễn Du- khi ấy thường gọi là cậu Chiêu Bảy, rất thích hát phường vải. Bấy giờ có làng Trường Lưu cũng thuộc huyện Nghi Xuân, là một trong những làng nổi tiếng về hát phường vải, về nghề dệt vải và về con gái đẹp. Làng Tiên Ðiền thì có nghề làm nón; con trai phường nón thường kéo nhau sang hát phường vải ở Trường Lưu. Họ đi hát vì mê hát , nhưng một phần cũng vì mê các cô gái đẹp. Trong các chuyến đi ấy, Chiêu Bảy chẳng bao giờ vắng mặt. Có một đêm hát nọ, Chiêu Bảy tình cờ gặp được một cô gái tên Cúc, người đẹp, giọng hay, tài bẻ chuyện, nhưng chỉ phải một nỗi đã sắp quá thì mà vẫn chưa chồng. Chiêu Bảy biết thóp như vậy, liền bẻ ngay một câu như sau để ghẹo chơi:
Trăm hoa đua nở mùa xuân,
Cớ sao Cúc lại muộn màng về thu?
Chiêu Bảy vờ nói hoa nhưng kỳ thực là muốn châm chọc: Các cô gái khác đều đã đi lấy chồng sơm, sao riêng cô Cúc lại để quá lứa lỡ thì như vậy?
Nhưng cô Cúc nào phải tay vừa, thoáng nghe qua cô đã hiểu ngay ý tứ của đối phương, bèn hát đáp lại rằng:
Vì chưng tham chút nhụy vàng,
Cho nên Cúc phải muộn màng về thu.
Hoa cúc vốn là hoa nở về thu; cúc nở về thu mới là đang độ mãn khai, thế là đúng kỳ chớ không phải là muộn.
Câu hỏi cũng khôn mà câu trả lời cũng thật là khéo lắm; Chiêu Bảy đành phải lảng sang chuyện khác không dám hỏi về chuyện ấy nữa
~~~*****~~~
Nguyễn Du lúc còn là học trò ở với thân sinh là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm ở Hà nội, theo học với một ông đồ họ Lê ở Gia Lâm, bên kia sông Nhị. Cậu học trò cùng các bạn ngày nào cũng phải qua sông bằng đò ngang. Người chở đò là một cô gái nhà nghèo, nhưng xinh xắn và ăn nói có duyên. Cậu học trò Nguyễn rất để ý.
Một hôm, cậu đến chậm, lỡ chuyến đò, cậu phải chờ đợi sốt ruột, nên làm một bài thơ nhờ bạn đưa cho cô gái, để tỏ lòng mình và cũng để thử lòng cô gái. Bài thơ như sau:
Ai ơi, chèo chống tôi sang
Kẻo trời trưa trật, lỡ làng tôi ra
Còn nhiều qua lại lại qua,
Gíup cho nhau nữa để mà...
Câu thơ cuối, tác giả bỏ lửng có ý để chờ cô gái điền vào. Nhận được, cô gái bẽn lẽn và từ chối; nhưng về sau nể lời bạn cô, cô cũng thêm vào hai chữ... quen nhau.
Thế rồi hai người yêu nhau. Nhà thơ thổ lộ tâm tình ra bốn câu lục bát rằng:
Quen nhau nay đã nên thương
Cùng nhau xe mối tơ vương chữ tình
Cảnh xinh xinh, người xinh xinh,
Trên trời, dưới nước, giữa mình với ta
Họ yêu nhau tha thiết, quyết chí lấy nhau, nhưng rồi không lấy được nhau. Bởi lẽ đơn giản: Nguyễn Du là cậu trai quý tộc mà cô kia thì chỉ là một cô gái bình dân. Chẳng những thế, do chuyện yêu đương ấy, Nguyễn Du còn bị gọi về nhà chịu một trận đòn nên thân, rồi lại bị gửi về học một ông đồ khác ở mạn Thái Bình.
Hơn 10 năm sau, khi Nguyễn Du có dịp trở lại bến cũ đò xưa thì cô gái đi lấy chồng lâu rồi, chỉ còn cây đa vẫn còn xanh tươi trước gió, dòng nước đỏ vẫn lặng lẽ trôi xuôi. Bến đò vẫn đông người qua lại nhưng vắng bóng một người. Trông cảnh cũ, nhớ người xưa, nhà thơ đành bùi ngùi sẻ ngâm lên bốn câu lục bát để gửi gấm lòng mình:
Yêu nhau những muốn gần nhau
Bể sâu trăm trượng, tình sâu gấp mười
Vì đâu xa cách đôi nơi
Bến này còn đó, nào người năm xưa?
Câu chuyện đau lòng này, sau được Nguyễn Du tự tay ghi chép trong một bản thảo, dưới nhan đề "Mối tình hận của ta".